Công tác lưu trữ là một bộ phận cốt yếu trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, sự ra đời của Luật Lưu trữ năm 2024, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2025, đã đánh dấu một bước tiến quan trọng, thay thế Luật Lưu trữ 2011 vốn đã không còn phù hợp với bối cảnh phát triển hiện nay. Một trong những thay đổi mang tính đột phá nhất của Luật mới là việc định danh và xác lập tiêu chí cho tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt, thay thế cho khái niệm "tài liệu lưu trữ quý, hiếm" trước đây. Bài viết này sẽ đi sâu phân tích những quy định mới, từ đó làm rõ tác động và định hướng của Luật đối với nghiệp vụ lưu trữ tại Việt Nam
Việc thay đổi thuật ngữ từ "quý, hiếm" sang "có giá trị đặc biệt" phản ánh một sự chuyển dịch quan trọng trong tư duy của ngành lưu trữ. Nếu "quý, hiếm" thường nhấn mạnh vào tính khan hiếm về số lượng và vật chất của tài liệu, thì khái niệm "có giá trị đặc biệt" lại tập trung vào bản chất cốt lõi của tài liệu: giá trị nội dung, tầm ảnh hưởng, và bối cảnh hình thành.
Sự thay đổi này giúp các nhà lưu trữ và cơ quan quản lý có cơ sở pháp lý vững chắc hơn để thẩm định những tài liệu không chỉ đơn thuần là cũ hay hiếm, mà còn chứa đựng thông tin có ý nghĩa nền tảng, xứng đáng được công nhận là một phần của phông lưu trữ quốc gia.
Căn cứ Điều 38 của Luật Lưu trữ năm 2024, tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt là những tài liệu được hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân và có ý nghĩa nổi bật về lịch sử, pháp lý, văn hóa hoặc khoa học. Những tài liệu này cần được ưu tiên bảo quản, thống kê, tổ chức sử dụng và phát huy giá trị một cách đặc biệt, trong đó bao gồm cả phương án lưu trữ dự phòng để phòng ngừa rủi ro mất mát.
Tài liệu được công nhận là có giá trị đặc biệt khi đáp ứng đồng thời ít nhất một tiêu chí nội dung và một tiêu chí hình thức hoặc xuất xứ.
Theo khoản 2 Điều 38 Luật Lưu trữ số 33/2024/QH15, tài liệu được xét công nhận cần thể hiện giá trị nội dung vượt trội, thuộc một hoặc nhiều nhóm sau:
Những tài liệu này thường bao gồm:
Sắc lệnh, chiếu chỉ, nghị quyết, hiệp định, công văn quan trọng trong từng giai đoạn lịch sử;
Bản đồ, địa bạ, tư liệu hành chính phản ánh sự hình thành đơn vị hành chính, lãnh thổ;
Các văn bản quy phạm pháp luật hoặc quyết sách lớn có tác động đến tiến trình phát triển của quốc gia;
Tư liệu lịch sử của từng ngành, lĩnh vực, ghi nhận thành tựu, bước ngoặt trong phát triển kinh tế – xã hội.
Việc xác định rõ tiêu chí này giúp phân loại, nhận diện những tài liệu có tầm ảnh hưởng lâu dài, có giá trị minh chứng lịch sử, từ đó có kế hoạch bảo quản, khai thác và phát huy giá trị một cách hiệu quả.
Những tài liệu thuộc nhóm này có thể bao gồm:
Các văn bản ngoại giao, hiệp ước, công hàm quốc tế liên quan đến biên giới, lãnh thổ, vùng biển, hải đảo của Việt Nam;
Bản đồ cổ, địa bạ, mộc bản, châu bản triều đình và các tài liệu hành chính khẳng định cương vực quốc gia;
Hồ sơ pháp lý về việc phân định, cắm mốc, quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia qua các thời kỳ;
Tư liệu, chứng cứ lịch sử chứng minh quá trình khai phá, quản lý và thực thi chủ quyền liên tục, hòa bình của dân tộc ta đối với lãnh thổ, vùng biển và hải đảo.
Tài liệu này minh chứng thành tựu nghiên cứu và ứng dụng công nghệ:
Báo cáo thí nghiệm, luận án tiến sĩ có giá trị quốc gia, phản ánh bước tiến khoa học, công nghệ ở từng giai đoạn phát triển;
Sáng chế, đăng ký bản quyền thiết kế, công nghệ lõi, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và khẳng định trí tuệ Việt;
Các bài báo khoa học có sức ảnh hưởng, được trích dẫn rộng rãi, đóng vai trò định hướng chính sách, ứng dụng thực tiễn và lan tỏa trong cộng đồng học thuật quốc tế.
Những hồ sơ lưu trữ này làm rõ nhân tố cá nhân và tập thể ảnh hưởng lớn đến lịch sử, văn hóa:
Di cảo, nhật ký, thư từ của các lãnh tụ, danh nhân văn hóa, khoa học;
Hồ sơ gia phả, văn bản phong tặng danh hiệu, huân chương ghi nhận công lao và sự cống hiến của dòng họ, gia đình tiêu biểu;
Tư liệu trao đổi chuyên môn giữa các thế hệ kế thừa, phản ánh sự nối tiếp và phát triển trong nhiều lĩnh vực.
Ngoài các nhóm trên, còn bao gồm:
Văn kiện đa phương, hiệp ước quốc tế quan trọng, ghi nhận vai trò và trách nhiệm của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế;
Tài liệu phim ảnh, ghi âm, ghi hình các sự kiện lịch sử lớn có sức lan tỏa toàn cầu;
Bản chụp tài liệu cổ, bản đồ quý hiếm đã được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thế giới.
Bên cạnh nội dung, tài liệu cần đáp ứng thêm một trong các tiêu chí sau về hình thức hoặc nguồn gốc:
Tài liệu phải thể hiện kỹ năng trình bày, thiết kế hoặc minh họa vượt trội, góp phần định hình chuẩn mực thẩm mỹ của từng giai đoạn lịch sử.
Bản vẽ kiến trúc hoặc quy hoạch đô thị với kỹ thuật bản đồ thủ công tinh xảo
Sổ sách, phù hiệu trang trí thủ công cho văn bản hành chính triều Nguyễn
Ấn bản có minh họa khắc gỗ, in lụa mang dấu ấn nghệ thuật dân gian
Tài liệu cần tiêu biểu cho phong cách, công cụ hoặc chất liệu phổ biến trong một giai đoạn cụ thể, giúp nhận diện dấu ấn thời đại.
Các loại sổ ghi biên bản cuộc họp theo mẫu hành chính cũ dưới thời Pháp thuộc
Tạp chí, báo chí in roneo hoặc offset những năm đổi mới
Ấn phẩm tuyên truyền kháng chiến khắc họa rõ phong cách đồ họa thời kỳ chiến tranh
Giá trị xuất xứ được xác lập khi tài liệu ra đời trong bối cảnh độc đáo, gắn liền sự kiện, con người, vùng miền quan trọng.
Thư từ, nhật ký tác chiến của cán bộ chỉ huy trong chiến dịch Điện Biên Phủ
Biên bản hội nghị lập Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Tân Trào, Sơn Dương
Bản thảo văn hóa phẩm đầu tiên của một danh nhân khi lưu vong ở nước ngoài
Sau khi công nhận giá trị đặc biệt, tài liệu phải được:
Lưu trữ dự phòng ở kho lưu trữ phụ với điều kiện bảo quản tương đương
Đưa vào sổ thống kê riêng để theo dõi định kỳ và báo cáo tình trạng
Ưu tiên phục vụ nghiên cứu, trưng bày, số hóa và các hoạt động giáo dục di sản
Dấu treo và dấu giáp lai trong công tác văn thư
Quy trình quản lý văn bản đi - đến
Hướng dẫn lâp hồ sơ hiện hành