Tài liệu lưu trữ là sản phẩm đặc thù, kết tinh trí tuệ, công sức và ký ức lịch sử của nhiều thế hệ. Không chỉ dừng lại ở việc gìn giữ, bảo quản an toàn, pháp luật Việt Nam còn đặc biệt coi trọng nhiệm vụ phát huy giá trị tài liệu lưu trữ – biến tài liệu trở thành nguồn lực phục vụ phát triển đất nước, giáo dục truyền thống, bồi dưỡng tinh thần dân tộc và quảng bá hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.
Luật Lưu trữ số 33/2024/QH15, có hiệu lực từ ngày 01/7/2025, đã dành cả Chương IV để quy định cụ thể về phát huy giá trị tài liệu lưu trữ. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm đưa tài liệu từ “kho kín” đến gần hơn với đời sống xã hội.
Theo Điều 40 Luật Lưu trữ 2024, ba nhóm tài liệu cơ bản được phát huy giá trị, bao gồm:
Thứ nhất, tài liệu phản ánh lịch sử dựng nước, giữ nước, xác lập và thực thi chủ quyền, quá trình hình thành và phát triển của quốc gia, dân tộc, cũng như giá trị truyền thống của đất nước, con người Việt Nam.
Ví dụ: Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình; các sắc phong triều Nguyễn về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa.
Thứ hai, tài liệu về các sự kiện tiêu biểu, dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam; các ngành, lĩnh vực, địa phương; cơ quan, tổ chức qua các chế độ chính trị – xã hội; cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng.
Ví dụ: Hồ sơ về Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) – dấu mốc khởi đầu công cuộc Đổi mới; hồ sơ công nhận Di sản văn hóa phi vật thể “Nhã nhạc cung đình Huế”.
Thứ ba, tài liệu phản ánh thành tựu tiêu biểu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ: Hồ sơ lưu trữ về thành tựu Chương trình vũ khí công nghệ cao; các công trình nghiên cứu khoa học đạt giải thưởng Hồ Chí Minh.
Đối với những tài liệu khác không thuộc ba nhóm trên, Luật cũng mở ra cơ chế linh hoạt, cho phép cơ quan lưu trữ chủ động lựa chọn hình thức phát huy phù hợp.
Luật Lưu trữ 2024 quy định khá đa dạng các hình thức phát huy (Điều 41 – 46), nhằm bảo đảm tính linh hoạt và phù hợp với bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Công khai danh mục hồ sơ, tài liệu (Điều 42): Danh mục tài liệu thuộc diện phát huy giá trị phải được đăng tải trên cổng thông tin điện tử của lưu trữ lịch sử hoặc cơ quan quản lý.
Công bố tài liệu (Điều 43): Là việc chính thức thông báo toàn văn hoặc một phần tài liệu cho công chúng.
Ví dụ: Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước công bố trực tuyến một số tài liệu quý về “Hành trình 70 năm Quốc hội Việt Nam”, giúp người dân và nhà nghiên cứu dễ dàng tiếp cận.
Triển lãm tài liệu lưu trữ (Điều 44): Giới thiệu trực tiếp hoặc trực tuyến, dưới dạng hình ảnh, bản gốc hoặc bản sao.
Giới thiệu trên phương tiện truyền thông: xây dựng chuyên mục, phóng sự, phim tài liệu, chương trình phát thanh – truyền hình.
Xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm lưu trữ: biên soạn sách, tập san, ấn phẩm chuyên đề.
Ví dụ: Triển lãm “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam – Những bằng chứng lịch sử và pháp lý” được tổ chức tại nhiều tỉnh, thành phố; xuất bản các bộ sách ảnh về “Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ”.
Điều 45 khuyến khích các cơ sở giáo dục đưa tài liệu lưu trữ vào hoạt động giảng dạy và ngoại khóa.
Ví dụ: Học sinh, sinh viên tham gia trải nghiệm tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia; sử dụng tài liệu lịch sử gốc trong các giờ học Lịch sử, Giáo dục công dân.
Điều 46 mở rộng phạm vi phát huy thông qua nhiều sáng kiến:
Tổ chức tọa đàm, hội thảo, sự kiện du lịch liên quan đến lưu trữ.
Cuộc thi tìm hiểu lịch sử qua tài liệu gốc, ứng dụng công nghệ số, thực tế ảo.
Hợp tác quốc tế về chia sẻ dữ liệu lưu trữ.
Thiết kế vật phẩm lưu niệm (bưu thiếp, tranh, mô hình 3D) từ tài liệu lưu trữ.
Ví dụ: Ứng dụng “Ký ức Việt Nam” trên nền tảng số, cho phép công chúng tra cứu tài liệu lưu trữ bằng công nghệ thực tế tăng cường (AR).
Thứ nhất, giáo dục truyền thống, bồi dưỡng lòng yêu nước. Thông qua tài liệu gốc, thế hệ trẻ có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với “chứng nhân lịch sử”, từ đó hình thành ý thức trân trọng di sản dân tộc.
Thứ hai, phục vụ nghiên cứu, hoạch định chính sách. Tài liệu lưu trữ cung cấp nguồn thông tin xác thực, giúp các nhà khoa học, nhà quản lý đưa ra quyết sách phù hợp với thực tiễn.
Thứ ba, quảng bá hình ảnh quốc gia. Những triển lãm, xuất bản phẩm lưu trữ không chỉ phục vụ nhân dân trong nước mà còn giới thiệu với bạn bè quốc tế về lịch sử, văn hóa, thành tựu của Việt Nam.
Thứ tư, gắn lưu trữ với đời sống, phát triển kinh tế – xã hội. Thông qua du lịch lưu trữ, sản phẩm lưu niệm, công nghệ số, tài liệu lưu trữ có thể trở thành nguồn lực kinh tế, đóng góp cho phát triển bền vững.
Luật Lưu trữ 2024 đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động phát huy giá trị tài liệu lưu trữ. Việc triển khai hiệu quả các quy định này đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan nhà nước, cơ sở giáo dục, tổ chức xã hội và mỗi cá nhân.
Mỗi tài liệu lưu trữ không chỉ là một trang giấy cũ kỹ mà là “chứng tích sống” của lịch sử, là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc. Phát huy giá trị tài liệu lưu trữ chính là góp phần bảo vệ chủ quyền, giữ gìn bản sắc văn hóa, đồng thời lan tỏa hình ảnh Việt Nam năng động, sáng tạo và giàu truyền thống đến bạn bè năm châu.
Bảo quản và phát huy tốt tài liệu hôm nay – gìn giữ ký ức dân tộc cho ngày mai.